I. Chiến thắng Điện Biên Phủ, mốc vàng trong lịch sử dân tộc
1. Bối cảnh lịch sử
Ngày 19/12/1946 với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta anh dũng bước vào cuộc kháng chiến trường
kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 có ý nghĩa quan trọng trong năm
đầu kháng chiến toàn quốc. Chiến thắng này là đòn quyết định làm thất bại hoàn
toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa
cách mạng và đầu não kháng chiến, mở ra giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
Chiến thắng Biên giới năm 1950 đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc
kháng chiến bước vào giai đoạn mới, giai đoạn ta nắm quyền chủ động chiến
lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản
công địch. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp
càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng,
chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.
Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu – Đông năm 1953, thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí
chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực
của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế
hoạch Nava là kế hoạch chung, là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến
trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Để đạt được
mục tiêu đó, Pháp và Mỹ đã lập kế hoạch đến năm 1954 quân chủ lực Pháp có 7
sư đoàn cơ động chiến lược với 27 binh đoàn làm nắm đấm thép.
Về phía ta, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc
tiến công chiến lược Đông – Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ
động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ
hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào
vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết
buộc địch phải phân tán lực lượng. Quân và dân ta đã phối hợp với quân và dân
Lào, Campuchia liên tiếp mở chiến dịch và giành thắng lợi ở Lai Châu, Trung
Lào, Hạ Lào, Đông Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, làm phá sản âm mưu tập trung lực
lượng của địch, buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó trên khắp
chiến trường Đông Dương, đẩy chúng vào tình thế bị động chiến lược. Khi phát
hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào,
Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ.
Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng
rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào. Tuy là kế hoạch nằm ngoài dự kiến ban
đầu của Kế hoạch Nava của Pháp và Mỹ, nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã
liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Địch đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm
21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn
công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với
49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động tinh nhuệ nhất
của Pháp ở Đông Dương; hệ thống hoả lực mặt đất khá mạnh với 2 tiểu đoàn
pháo 105mm, 1 đại đội pháo 155mm, 1 đại đội súng cối 120mm được bố trí ở
Mường Thanh và Hồng Cúm; hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với gần
100 lần chiếc lên, xuống mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn
hàng và thả dù từ 100 đến 150 tên địch, đảm bảo nguồn tiếp viện cho quân Pháp
trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm
phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ. Nava coi Điện Biên
Phủ như “một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội
chủ lực của ta. Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch
Nava.
Trước tình hình đó, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp và nhận định,
Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng chỗ yếu cơ bản của địch là bị cô
lập. Về phía ta, Điện Biên Phủ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay;
diễn ra trên địa bàn rừng núi hiểm trở, đường cơ động cho pháo khó khăn, thời
gian chuẩn bị cho chiến dịch gấp, nhưng có ý nghĩa quân sự, chính trị và ngoại
giao rất quan trọng. Khó khăn lớn nhất của ta là vấn đề cung cấp hậu cần nhưng
chúng ta có thể khắc phục được. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện
Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch,
Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng
uỷ chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do
đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của
chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ
binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000. Chấp hành quyết định
của Bộ Chính trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn
trương. Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu
hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực
nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng
trận địa, sẵn sàng tiến công địch. 261.451 dân công, thanh niên xung phong bất
chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
2. Diễn biến của chiến dịch
Ngày 25/01/1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng
theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy
địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ
chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến
chắc”. Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn. Đó là,
thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác nên có những việc ta phải
chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí hệ thống hoả lực chiến dịch. Với
địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay
thay đổi phương châm tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới
trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh
thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi
cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt.
Đợt 1: Từ ngày 13/3 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí, dũng cảm tiêu
diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa
ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000
tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường
Thanh; Pirốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh
của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các
cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục
tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập
đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Nava hy vọng
đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất,
quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn
giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1
giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã
nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động,
mất tinh thần cao độ.
Đợt 3: Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ
điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch
diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ
phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400
tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm
sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của
quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta
tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24
giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã
đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200
tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang
quân dụng của địch.
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến
dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển
hình nhất và là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định
Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và
điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
II. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử
1. Nguyên nhân thắng lợi
Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối kháng chiến, đường
lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược
chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng chế độ
mới. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là
chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết
hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự,
địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ,
lòng yêu nước và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tạo nên ý chí
quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, quyết tâm đánh
thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến
miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy
cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây
dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức
của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến,
quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ
chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho
chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh
chiến trường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy
sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn có sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ
của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì hoà bình của nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước
trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại
của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
2. Ý nghĩa lịch sử
a- Đối với nhân dân ta
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chiến thắng Điện
Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại
Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ
là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay
đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp
định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín
năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược
của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo
vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; mở ra giai đoạn cách mạng
mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng,
một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
b- Đối với thế giới
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào
phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở
vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi
toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ
nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán
đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của
thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường
lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó
nhất định thắng lợi; đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi,
Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc.
III. Phát huy tinh thần “quyết chiến, quyết thắng” của Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chủ động nắm bắt thời cơ, vượt mọi khó khăn, thử thách xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan nỗ
lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký kết
Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương;
Một nửa đất nước được giải phóng, mở ra thời kỳ cách mạng mới đưa miền Bắc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở
thành di sản tinh thần quý báu.
Tiếp nối chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, dân tộc ta đã viết
tiếp bản anh hùng ca chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh lập chiến công hiển
hách Điện Biên Phủ trên không năm 1972; Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội; giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong
công cuộc đổi mới gần 30 năm qua, đưa đất nước ta lên một tầm cao mới, thế và
lực mới, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế.
Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta tự hào về Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh, một Đảng Mác – Lênin chân chính; tự hào về
Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới – anh hùng giải phóng dân
tộc, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta; tự hào về dân tộc anh hùng, về các lực
lượng vũ trang nhân dân, về Quân đội nhân dân Việt Nam bách chiến, bách
thắng.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động: Tình hình
Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định. Các
nước lớn tiếp tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng với mức độ quy mô
khác nhau ở các khu vực. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân
tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu vực
và nhiều nơi trên thế giới.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng
bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen các thế lực
thù địch gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi
dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền…để can thiệp vào công việc
nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân
ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không ngừng mài sắc
cảnh giác, phát huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân – nông dân – trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng; giữ vững và tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu
nghị với nhân dân và Quân đội các nước theo truyền thống của Đảng, của dân
tộc và của Quân đội ta; kết hợp sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua
thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Các thế hệ đi trước không cam chịu làm nô lệ đã phát huy cao độ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm, sáng tạo đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược,
hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các thế hệ ngày nay quyết
tâm phát huy tinh thần Điện Biên Phủ, dám nghĩ, dám làm, năng động sáng tạo
trong sự nghiệp đổi mới, lập nên kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tiếp tục xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây
dựng thế trận quốc phòng – an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng, chất lượng các khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng – an ninh – kinh tế – đối ngoại. Chú
trọng xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu,
vùng xa, tạo thế trận quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế –
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc ở các địa bàn chiến lược. Tổ chức các lực lượng vũ trang
hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự
vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Tiếp tục nâng cao
chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức
mạnh cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng
lợi mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2019, Nghị quyết Đại hội
Đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và các nghị quyết,
kết luận Hội nghị Trung ương. Tích cực triển khai, phổ biến, tuyên truyền và thi
hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm của nhân dân, tôn trọng, chấp hành và bảo vệ Hiến pháp vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.